Ngày 16/6/2025, Quốc hội Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XV, Kỳ họp thứ 9 thông qua Luật Tổ chức chính quyền địa phương mới số 72/2025/QH15 và chính thức có hiệu lực thi hành kể từ ngày được thông qua.
Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 là bước cải cách sâu rộng, thể hiện tư duy đổi mới trong tổ chức và vận hành bộ máy nhà nước ở địa phương so với Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015. Dưới đây là chi tiết 05 điểm mới nổi bật, đáng chú ý của Luật số 72/2025/QH15:
1. Chuyển đổi mô hình chính quyền địa phương từ ba cấp xuống chỉ còn hai cấp
Khoản 1 Điều 1 Luật tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 quy định:
1. Đơn vị hành chính của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được tổ chức thành 02 cấp, gồm có:
a) Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương (sau đây gọi chung là cấp tỉnh);
b) Xã, phường, đặc khu trực thuộc cấp tỉnh (sau đây gọi chung là cấp xã).
Đồng thời, khoản 3 Điều 51 của Luật cũng khẳng định rõ:
Hội đồng nhân dân, các cơ quan thuộc Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân, Chủ tịch Ủy ban nhân dân, các cơ quan chuyên môn, tổ chức hành chính khác thuộc Ủy ban nhân dân huyện, quận, thành phố thuộc tỉnh, thành phố thuộc thành phố trực thuộc trung ương, thị xã (sau đây gọi chung là cấp huyện) kết thúc hoạt động từ ngày 01 tháng 7 năm 2025.
Thực hiện theo Nghị quyết 18-NQ/TW năm 2017 về việc tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy nhà nước, Ban Chấp hành Trung Ương đề ra mục tiêu xây dựng một hệ thống chính trị gọn nhẹ, minh bạch, vững mạch, hoạt động hiệu quả, hiệu lực, tránh chồng chéo, trùng lặp chức năng, gây lãng phí nguồn lực.
Theo báo cáo của Bộ Nội vụ, trong quá trình rà soát chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính nhà nước, có tới 20% số cơ quan và đơn vị bị phát hiện có sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ. Điển hình như ở các lĩnh vực như quản lý tài nguyên và môi trường, thanh tra, kiểm tra hay trong các cơ quan cấp huyện, cấp xã, việc phân chia trách nhiệm chưa rõ ràng đã dẫn đến tình trạng nhiều nơi “dẫm chân nhau” trong thực thi công việc, gây lãng phí thời gian, công sức, nguồn lực, ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của bộ máy.
Theo số liệu của Bộ Tài chính, tổng thu ngân sách nhà nước năm 2023 đạt 1,75 triệu tỷ đồng, còn chi ngân sách đạt 1,73 triệu tỷ đồng. Trong đó, chi thường xuyên lên tới 1,05 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 61% tổng chi ngân sách. Còn theo số liệu năm 2024, tổng chi ngân sách nhà nước ước đạt 1,83 triệu tỷ đồng, trong đó chi thường xuyên là 1,19 triệu tỷ đồng, chiếm 65% tổng chi ngân sách. Nhiều năm gần đây, số chi thường xuyên luôn ở mức trên dưới 1 triệu tỷ đồng, chiếm khoảng 60-65% tổng chi ngân sách. Phần tiền còn lại dành cho chi đầu tư phát triển, chi trả nợ gốc và lãi. Tất nhiên, số tiền đó là không đủ nên ngân sách mỗi năm phải vay nợ hàng trăm nghìn tỷ. Chi thường xuyên cao phản ánh quy mô lớn và hoạt động tốn kém của bộ máy hành chính, các tổ chức chính trị – xã hội. Nếu không có những biện pháp mạnh mẽ để cải tổ và tinh gọn bộ máy, nguồn lực ngân sách khó có thể được sử dụng hiệu quả, gây khó khăn cho các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội. Đặc biệt là khi mục tiêu tăng trưởng hai con số mỗi năm đang được đặt ra bức thiết để hướng tới trở thành nước thu nhập trung bình cao vào năm 2030. Tại phiên họp Chính phủ thường kỳ đầu tiên trong năm 2025, nội dung được nhấn mạnh cần phải ưu tiên giải quyết là đưa tỷ trọng chi thường xuyên xuống dưới 60% trong tổng chi ngân sách để tiết kiệm chi phí phục vụ đầu tư các hạng mục khác về cơ sở hạ tầng, phát triển đô thị.
Do vậy, động lực để thúc đẩy việc tinh gọn bộ máy nhà nước thực hiện nhanh chóng và cấp bách là vì tính thiếu hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước trong khi ngân sách để quản lý một bộ máy cồng kềnh chiếm một tỷ lệ quá cao so với tổng chi ngân sách. Định hướng phát triển của đất nước tính đến năm 2030 là phấn đấu mục tiêu tăng trưởng mỗi năm hai con số, vì vậy, cần phải có bước đi cụ thể và rõ ràng để sắp xếp lại các đơn vị tổ chức hành chính để giảm bớt rào cản và bứt tốc.
Trên cơ sở mô hình chính quyền địa phương 02 cấp (gồm: cấp tỉnh và cấp cơ sở), phân định rõ nhiệm vụ, quyền hạn của từng cấp chính quyền địa phương theo hướng: (1) Cấp tỉnh tập trung ban hành cơ chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, quản lý vĩ mô, các vấn đề có tính chất liên vùng, liên cơ sở, vượt quá năng lực giải quyết của cơ sở, đòi hỏi chuyên môn sâu và đảm bảo tính thống nhất trên toàn cấp tỉnh; (2) Cấp cơ sở là cấp tổ chức thực hiện chính sách (từ trung ương và cấp tỉnh), tập trung vào các nhiệm vụ phục vụ người dân, trực tiếp giải quyết các vấn đề của cộng đồng dân cư, cung cấp các dịch vụ công cơ bản, thiết yếu cho người dân trên địa bàn; các nhiệm vụ cần sự tham gia của cộng đồng, phát huy tính chủ động, sáng tạo của cấp cơ sở. Trong đó, cấp cơ sở đảm nhận các nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp xã và nhiệm vụ, quyền hạn của chính quyền địa phương cấp huyện trước đây.
Việc điều chỉnh đơn vị hành chính từ 3 cấp xuống còn 2 cấp là một trong các thay đổi chính để thực hiện mục tiêu sắp xếp, tinh gọn bộ máy nhà nước và là cơ sở để ban hành Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15. Mô hình hai cấp phản ánh xu hướng hiện đại hóa quản trị nhà nước, phù hợp với chủ trương đổi mới tổ chức bộ máy theo tinh thần Nghị quyết số 18-NQ/TW của Trung ương.
2. Thiết lập đơn vị hành chính đặc khu
Một điểm hoàn toàn mới và mang tính chiến lược trong Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 là việc lần đầu tiên xác lập loại hình đơn vị hành chính “đặc khu”. Cụ thể, theo điểm b khoản 1, Điều 1:
Xã là đơn vị hành chính ở nông thôn; phường là đơn vị hành chính ở đô thị; đặc khu là đơn vị hành chính ở một số hải đảo có vị trí quan trọng được thành lập phù hợp với điều kiện địa lý, tự nhiên, đặc điểm dân cư và yêu cầu phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Tờ trình Luật TCCQĐP 2025 có nội dung định hướng sửa đổi các nội dung cơ bản của Dự thảo Luật về tổ chức đơn vị hành chính đặc khu tại một số hải đảo như sau:
Ủy quyền cho chính quyền địa phương đặc khu để trao quyền tự chủ trong quản lý nhà nước ở khu vực hải đảo, bảo đảm sự linh hoạt, chủ động ứng phó khi có sự kiện, tình huống đột xuất, bất ngờ xảy ra nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên các vùng biển, hải đảo, phát huy lợi thế, tiềm năng kinh tế biển, hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm thu hút người dân ra sinh sống, bảo vệ và phát triển hải đảo.
Khoản 2 Điều 27 quy định:
Việc quy định nhiệm vụ, quyền hạn cụ thể cho chính quyền địa phương ở đặc khu trong các văn bản quy phạm pháp luật khác phải bảo đảm tăng cường quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các cơ quan nhà nước tại địa phương, bảo đảm linh hoạt, chủ động ứng phó khi có sự kiện, tình huống đột xuất, bất ngờ xảy ra nhằm bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên các vùng biển, hải đảo, phát huy lợi thế, tiềm năng kinh tế biển, hội nhập kinh tế quốc tế, bảo đảm thu hút người dân sinh sống, bảo vệ và phát triển hải đảo.
Điểm mới này không chỉ phản ánh tư duy mở rộng không gian thể chế cho phát triển, mà còn là động thái khẳng định hiện diện quản lý nhà nước trên các địa bàn biên giới, hải đảo – những khu vực có tính chất nhạy cảm trong bối cảnh cạnh tranh chiến lược đang gia tăng ở khu vực Biển Đông. Thực tiễn cho thấy, các huyện đảo tuy có vị trí quan trọng nhưng mô hình tổ chức quản lý còn thiếu ổn định, thiếu khung pháp lý phù hợp, khiến việc điều hành gặp nhiều khó khăn.
Việc đưa ra khái niệm mới “đặc khu” là một đơn vị hành chính cấp xã kể từ ngày 01/7/2025 tạo tiền đề để xây dựng mô hình quản trị phù hợp, linh hoạt hơn so với xã thông thường, tạo điều kiện thu hút đầu tư và thúc đẩy liên kết biển, đảo trong chiến lược phát triển quốc gia. Việc quản lý nhà nước đối với khu vực hải đảo theo cơ chế linh động, đặc thù không chỉ nhằm bảo vệ vững chắc chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ mà còn phát huy tiềm lực phát triển kinh tế biển đảo, tạo điều kiện thuận lợi về các chính sách để thu hút cư dân sinh sống và phát triển hải đảo. Nhà nước không chỉ bảo vệ chủ quyền lãnh thổ tại khu vực hải đảo bằng an ninh-quân đội-quốc phòng mà còn bảo vệ một cách bền vững và chiến lược hơn bằng cách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội đi đôi với việc tạo ra các cơ chế, chính sách đặc thù, linh động phù hợp với từng điều kiện của địa phương, từ đó hình thành các khu dân cư thu hút người dân sinh sống, phát triển và gìn giữ chủ quyền lãnh thổ khu vực hải đảo.
Tác giả: Cao Gia Hân